Phân tích lạm phát một số nền kinh tế lớn (Trung Quốc, Brazil, Pháp)

Phân tích lạm phát một số nền kinh tế lớn (Trung Quốc, Brazil, Pháp) 30/05/2024 16:59:00 864

Cỡ chữ:A- A+
Tương phản:Giảm Tăng

Phân tích lạm phát một số nền kinh tế lớn (Trung Quốc, Brazil, Pháp)

30/05/2024 16:59:00

Phân tích lạm phát một số nền kinh tế lớn

(Trung Quốc, Brazil, Pháp)

Giá tiêu dùng Trung Quốc tăng tháng thứ 3

Tỷ lệ lạm phát hàng năm của Trung Quốc đã tăng lên 0,3% vào tháng 4 năm 2024, so với ước tính của thị trường và con số 0,1% của tháng 3. Đây là tháng lạm phát tiêu dùng thứ ba liên tiếp, trong bối cảnh nhu cầu trong nước đang phục hồi bất chấp sự hồi phục kinh tế mong manh. Lạm phát phi thực phẩm tăng nhanh (0,9% so với 0,7% trong tháng 3), với giá quần áo tăng thêm (1,6% so với 1,6%), nhà ở (0,2% so với 0,2%), y tế (1,6% so với 1,5%) và giáo dục (1,8% so với 1,8%). Đồng thời, chi phí vận tải tăng 0,1% sau khi giảm 1,3% trong tháng trước do một số chính quyền địa phương gần đây đã tăng giá dịch vụ công cộng, chẳng hạn như khí đốt tự nhiên và giá vé tàu hỏa. Về mặt thực phẩm, giá tiếp tục giảm, đánh dấu tháng giảm thứ 10 liên tiếp (-2,7% so với -2,7%). Giá tiêu dùng cốt lõi, trừ giá lương thực và năng lượng, tăng 0,7% so với cùng kỳ trong tháng 4, so với mức tăng 0,6% trong tháng 3. Hàng tháng, CPI tăng 0,1%, đảo ngược so với mức giảm 1,0% trong tháng 3, đây là mức giảm mạnh nhất trong ba năm.

 

image

 

Xuất khẩu từ Trung Quốc tăng 1,5% so với cùng kỳ năm ngoái lên mức cao nhất trong ba tháng là 292,45 tỷ USD vào tháng 4 năm 2024, phục hồi từ mức giảm 7,5% trong tháng trước và vượt qua dự báo thị trường về mức tăng trưởng 1%, phản ánh sự cải thiện trong nhu cầu toàn cầu. Trong số các đối tác thương mại, xuất khẩu tăng trưởng sang Đài Loan (4,0%) và các nước ASEAN (8,1%) trong khi giảm sang Mỹ (-2,8%), Nhật Bản (-10,9%), Úc (-6,2%), Hàn Quốc (- 6,1%), Nga (-14%) và EU (-3,6%). Xét trong 4 tháng đầu năm, xuất khẩu tăng 1,5% lên 1,1 nghìn tỷ USD, trong bối cảnh xuất khẩu sản phẩm nhựa tăng (8,1%), nhôm chưa gia công và vật liệu nhôm (0,6%), đồ nội thất & linh kiện (16,5%), điện tử ( 3,4%) và sản phẩm công nghệ cao (0,9%). Trong giai đoạn này, xuất khẩu mở rộng sang Nga (2,6%), Ấn Độ (1,9%), Canada (3,8%), New Zealand (3,1%), Mỹ Latinh (9,3%), Châu Phi (4,4%) và các nước ASEAN ( 4,1%).

image

Nhập khẩu vào Trung Quốc tăng 8,4% so với năm trước lên 220,10 tỷ USD vào tháng 4 năm 2024, vượt dự báo thị trường là 5,4% và đảo ngược so với mức giảm 1,9% trong tháng 3. Sự gia tăng này diễn ra sau sự sụt giảm trong hai tháng trước đó, do nhu cầu trong nước phục hồi trong bối cảnh có nhiều biện pháp hỗ trợ từ Bắc Kinh. Tháng trước, nhập khẩu tăng từ Mỹ (9,0%), các nước ASEAN (5,0%) và EU (2,5%). Từ tháng 1 đến tháng 4, lượng mua hàng tăng thêm 3,2% lên 843,91 tỷ USD. Trong giai đoạn này, nhập khẩu thiết bị xử lý dữ liệu tự động đã tăng 49,9% trong khi nhập khẩu mạch tích hợp và danh mục sản phẩm công nghệ cao lần lượt tăng 11,9% và 11,5%. Từ đầu năm đến nay, lượng mua hàng tăng từ các nước ASEAN (2,6%), Hồng Kông (9,1%), Hàn Quốc (11,3%), Đài Loan (5,6%), Nga (10,2%) và Ấn Độ (14,9%); nhưng giảm từ EU (-5,3%), Mỹ (-5,7%), Nhật Bản (-3,4%) và Anh (-12,5%).

 

image

Tỷ lệ lạm phát ở Brazil giảm lần thứ bảy liên tiếp

Tỷ lệ lạm phát hàng năm ở Brazil giảm xuống mức 3,69% vào tháng 4 năm 2024, mức thấp nhất trong 10 tháng, từ mức 3,93% của tháng trước, khá phù hợp với kỳ vọng của thị trường là 3,66%. Tỷ lệ lạm phát ở Brazil giảm lần thứ bảy liên tiếp đã thúc đẩy tăng trưởng giá tiến gần hơn đến mục tiêu 3,5% của Ngân hàng trung ương làm tăng khả năng cắt giảm lãi suất nhiều hơn trong chu kỳ hiện tại. Lạm phát chậm lại đối với nhà ở và tiện ích (3,49% so với 4% trong tháng 3), giao thông vận tải (3,27% so với 3,7%), bất chấp giá nhiên liệu tăng mạnh (4,91% so với 2,66%) và chăm sóc sức khỏe (5,88% so với 6,24%). Trong khi đó, giá đồ gia dụng giảm nhanh hơn (-0,59% so với -0,16%), trong khi lạm phát đối với thực phẩm và đồ uống nhìn chung không thay đổi ở mức 3,08% so với 3,1%). So với tháng trước, CPI tăng 0,38%.

image

Lạm phát hàng năm ở Pháp thấp nhất kể từ tháng 9/2021

Ước tính sơ bộ cho thấy tỷ lệ lạm phát hàng năm ở Pháp giảm xuống 2,2% vào tháng 4 năm 2024, thấp hơn so với mức 2,3% trong tháng 3, nhưng cao hơn dự báo 2,1%. Tuy nhiên, đây là mức thấp nhất kể từ tháng 9 năm 2021, do giá thực phẩm giảm (1,2% so với 1,7% trong tháng 3), với chi phí thực phẩm tươi sống giảm 0,7%; và thuốc lá (9% so với 10,7%). Đồng thời, chi phí giảm đối với các sản phẩm sản xuất (-0,1% so với 0,1%), trong khi giá năng lượng tăng nhanh (3,8% so với 3,4%) và không thay đổi đối với dịch vụ (3,0%). So với tháng trước, CPI tăng 0,5%, đúng dự báo và tăng so với mức tăng 0,2% trước đó, do giá dịch vụ, đặc biệt là vận tải và các dịch vụ khác tăng.

image

Việc làm trong khu vực tư nhân của Pháp đã tăng 50,5 nghìn, tương đương 0,2%, lên 21,16 triệu trong quý đầu tiên của năm 2024, phục hồi từ mức giảm 0,1% trong giai đoạn ba tháng trước đó và vượt qua ước tính sơ bộ của thị trường là 0%. Sự gia tăng này chủ yếu là do số việc làm tăng ở cả khu vực công nghiệp (+6,4 nghìn) và dịch vụ phi thị trường (+6,4 nghìn). Mặt khác, việc làm giảm ở ngành nông nghiệp (-1 nghìn) và xây dựng (-7,9 nghìn). So với cùng kỳ năm trước, bảng lương tăng 0,5% tương đương 101,1 nghìn.

image

 

Bình chọn

Điểm bình chọn
0 / 5
Tổng 0 lượt bình chọn
5
0%
4
0%
3
0%
2
0%
1
0%