THỨ SÁU 25/7/2025 11:18
Hỏi:
Trả lời phản ánh kiến nghị của Tập đoàn Công nghiệp – Năng lượng Quốc gia Việt Nam, Bộ Tài chính có ý kiến như sau:
03/09/2025
Trả lời:
1. Nội dung kiến nghị liên quan đến khoản 1 Điều 10 Luật số 13/2008/QH12 quy định về phương pháp khấu trừ thuế GTGT: Nội dung kiến nghị: Theo khoản 1 Điều 10 Luật số 13/2008/QH12 quy định phương pháp khấu trừ thuế GTGT thì số thuế GTGT phải nộp theo phương pháp khấu trừ thuế đều căn cứ trên số thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra và mua vào ghi trên hoá đơn GTGT trong khi Luật Quản lý thuế quy định thời hạn khai, nộp thuế đối với hoạt động khai thác, bán khí thiên nhiên xác định theo tháng “chậm nhất là ngày thứ 20 của tháng tiếp theo tháng phát sinh nghĩa vụ thuế đối với trường hợp khai và nộp theo tháng” - điểm a khoản 1 Điều 44 và khoản 1 Điều 55 gây khó khăn trong quá trình thực hiện do tháng phát sinh nghĩa vụ thuế là tháng xuất bán khí tuy nhiên, tại thời điểm xuất bán khí chưa có hóa đơn đầu vào đầu ra của khí bán trong tháng nên không thể xác định được chính xác số thuế GTGT phải nộp theo Luật Thuế GTGT. Kiến nghị: Sửa đổi các quy định để đảm bảo tính thống nhất và doanh nghiệp có thể thực hiện được. Bộ Tài chính xin trả lời như sau: - Tại điểm a khoản 1 Điều 8 Luật Thuế GTGT số 48/2024/QH15 ngày 26/11/2025 quy định về thời điểm xác định thuế GTGT như sau: “a) Đối với hàng hóa là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hàng hóa cho người mua hoặc thời điểm lập hóa đơn, không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền;”. - Tại điểm b khoản 7 Điều 16 Nghị định số 181/2025/NĐ-CP ngày 01/7/2025 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều Luật Thuế GTGT quy định về thời điểm xác định thuế GTGT như sau: “Đối với hoạt động bán khí thiên nhiên, khí đồng hành, khí than được chuyển bằng đường ống dẫn khí đến người mua, thời điểm xác định thuế GTGT là thời điểm bên mua, bên bán xác định khối lượng khí giao của tháng nhưng 2 chậm nhất là ngày cuối cùng của thời hạn kê khai, nộp thuế đối với tháng phát sinh nghĩa vụ thuế theo quy định pháp luật về quản lý thuế”. - Tại điểm e khoản 4 Điều 9 Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ (đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 70/2025/NĐ-CP ngày 20/3/2025 của Chính phủ) quy định về thời điểm lập hóa đơn như sau: “Đối với hoạt động bán khí thiên nhiên, khí đồng hành, khí than được chuyển bằng đường ống dẫn khí đến người mua, thời điểm lập hóa đơn là thời điểm bên mua, bên bán xác định khối lượng khí giao của tháng nhưng chậm nhất là ngày cuối cùng của thời hạn kê khai, nộp thuế đối với tháng phát sinh nghĩa vụ thuế theo quy định pháp luật về thuế.” - Tại điểm a khoản 1 Điều 44 và khoản 1 Điều 55 Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 ngày 13/6/2019 quy định như sau: “Điều 44. Thời hạn nộp hồ sơ khai thuế 1. Thời hạn nộp hồ sơ khai thuế đối với loại thuế khai theo tháng, theo quý được quy định như sau: a) Chậm nhất là ngày thứ 20 của tháng tiếp theo tháng phát sinh nghĩa vụ thuế đối với trường hợp khai và nộp theo tháng; … Điều 55. Thời hạn nộp thuế 1. Trường hợp người nộp thuế tính thuế, thời hạn nộp thuế chậm nhất là ngày cuối cùng của thời hạn nộp hồ sơ khai thuế. Trường hợp khai bổ sung hồ sơ khai thuế, thời hạn nộp thuế là thời hạn nộp hồ sơ khai thuế của kỳ tính thuế có sai, sót. Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp thì tạm nộp theo quý, thời hạn nộp thuế chậm nhất là ngày 30 của tháng đầu quý sau. Đối với dầu thô, thời hạn nộp thuế tài nguyên, thuế thu nhập doanh nghiệp theo lần xuất bán dầu thô là 35 ngày kể từ ngày xuất bán đối với dầu thô bán nội địa hoặc kể từ ngày thông quan hàng hóa theo quy định của pháp luật về hải quan đối với dầu thô xuất khẩu. Đối với khí thiên nhiên, thời hạn nộp thuế tài nguyên, thuế thu nhập doanh nghiệp theo tháng.” Căn cứ quy định nêu trên, thời điểm xác định thuế GTGT có thể là thời điểm lập hóa đơn và thời điểm xác định thuế GTGT đối với hoạt động bán khí thiên nhiên đã thống nhất với thời điểm lập hóa đơn và nộp hồ sơ khai thuế, nộp thuế theo tháng theo quy định của pháp luật về quản lý thuế. Ngoài ra, ngày 01/8/2025, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 92/2025/UBTVQH15 điều chỉnh Chương trình lập pháp năm 2025 theo đó, Luật Quản lý thuế (sửa đổi) đã được bổ sung vào Chương trình lập pháp năm 3 2025 và sẽ trình Quốc hội cho ý kiến và thông qua tại Kỳ họp thứ 10 (tháng 10/2025). 2. Nội dung liên quan đến Nghị định số 146/2017/NĐ-CP ngày 15/12/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 100/2016/NĐ-CP ngày 01/07/2016: Nội dung kiến nghị: Từ giữa năm 2018 thị trường sản phẩm lọc hóa dầu nội địa có nhiều thay đổi khi nhà máy lọc dầu (NMLD) Nghi Sơn (BSR) đi vào sản xuất. Nguồn cung xăng dầu trong nước tăng lên rất nhiều giúp cho cán cân cung cầu xăng dầu nội địa dần được cân bằng. Bên cạnh đó, với các yêu cầu về tiêu chuẩn khí thải theo Quyết định số 49/2011/QĐ-TTg, sản lượng xăng dầu cung ứng trên thị trường có thời điểm sẽ vượt nhu cầu nội địa hoặc có những thời điểm sản phẩm xăng dầu của BSR không thể tiêu thụ được tại thị trường trong nước. Để đảm bảo cho Nhà máy được vận hành an toàn và liên tục, ngoài phương án tiêu thụ tối đa sản phẩm tại thị trường nội địa, BSR và khách hàng của BSR buộc phải có kế hoạch xuất khẩu sản phẩm của NMLD Dung Quất sang các nước trong khu vực khi sản phẩm của nhà máy không thể tiêu thụ được tại thị trường nội địa. Bên cạnh đó, hàng năm BSR xuất khẩu khoảng hơn 140-150 nghìn tấn FO. Tuy nhiên, sản phẩm lọc dầu của BSR khi xuất khẩu vẫn không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT, do đó, phần thuế GTGT tăng không được khấu trừ này đang được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh. Điều này không những làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh mà còn làm giảm đi lợi thế cạnh tranh cũng như bất lợi cho BSR trong quá trình kinh doanh sản phẩm, đặc biệt giai đoạn thị trường gặp khó khăn. Kiến nghị: Xem xét loại bỏ các sản phẩm được chế biến từ tài nguyên dầu thô ra khỏi danh sách các sản phẩm không chịu thuế GTGT khi xuất khẩu (bao gồm cả xuất khẩu trực tiếp từ BSR hoặc thông qua các đầu mối). Bộ Tài chính xin trả lời như sau: Ngày 01/7/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 181/2025/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế GTGT, theo đó, không quy định các sản phẩm được chế biến từ tài nguyên dầu thô tại Danh mục sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên, khoáng sản khai thác chưa chế biến thành sản phẩm khác và sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên, khoáng sản khai thác đã chế biến thành sản phẩm khác tại Phụ lục I, Phụ lục II kèm theo Nghị định số 181/2025/NĐ-CP. 3. Nội dung kiến nghị liên quan đến Điều 26 Nghị định số 181/2025/NĐ-CP: Nội dung kiến nghị: Quy định này áp dụng đối với việc chi mua hàng hóa, dịch vụ cho tàu biển của đơn vị trong nước phát sinh tại nước ngoài còn hạn chế về tính khả thi. Theo thông lệ quốc tế, tàu hoạt động tại nước ngoài vẫn phải phát sinh các giao 4 dịch đột xuất phải kịp thời xử lý và khi tàu hoạt động tại khu vực có cơ sở hạng tầng thấp như Châu Phi, một số nước Nam Mỹ,… nên cần sử dụng tiền mặt trên tàu để chi trả. Tuy nhiên, do điều kiện thanh toán trên tàu không thể sử dụng các phương tiện thanh toán khác nên vẫn phải dùng nguồn tiền ngoại tệ dự trữ trên tàu để thanh toán. Hơn nữa, các đội tàu các nước hiện đại như Châu Âu, Bắc Mỹ, Úc,… vẫn sử dụng tiền mặt trên tàu (Cash To Master - CTM) để phục vụ hoạt động liên tục, công việc đột xuất của tàu. Bộ Tài chính xin trả lời như sau: Tại điểm b khoản 2 Điều 14 Luật Thuế GTGT số 48/2024/QH15 quy định về điều kiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào như sau: “2. Điều kiện khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào được quy định như sau: … b) Có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào, trừ một số trường hợp đặc thù theo quy định của Chính phủ;” Tại Điều 26 Nghị định số 181/2025/NĐ-CP quy định về chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt như sau: “Điều 26. Chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt Cơ sở kinh doanh phải có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào (bao gồm cả hàng hóa nhập khẩu) từ 05 triệu đồng trở lên đã bao gồm thuế giá trị gia tăng”. Căn cứ quy định nêu trên, điều kiện “có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt” là điều kiện để khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Đối với việc chi mua hàng hóa, dịch vụ cho tàu biển của doanh nghiệp trong nước phát sinh tại nước ngoài thì hóa đơn mua hàng hóa, dịch vụ ở nước ngoài sẽ không phát sinh số thuế GTGT được khấu trừ tại Việt Nam. Vì vậy, sẽ không phát sinh vướng mắc. Bộ Tài chính trả lời để Tập đoàn Công nghiệp – Năng lượng Quốc gia Việt Nam được biết./.
Gửi phản hồi: